Có một thời, xà bông “Cô Ba” là món mỹ phẩm không thể thiếu của các bà, các cô từ miền Đông Nam bộ đến miền Tây Nam bộ.
Tỷ phú Trương Văn Bền
Có một thời, xà bông “Cô Ba” đánh bật những thương hiệu xà bông nổi tiếng nước ngoài nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, trở thành một “thương hiệu Việt” có tiếng nhất thời bấy giờ.
Lớp thanh niên bây giờ không biết, nhưng những người lớn tuổi ở miền Nam nói tới xà bông “Cô Ba” với hình ảnh người phụ nữ Việt có gương mặt phúc hậu in trên bao bì chắc chắn đều nhớ.
Ngày nay, trong các hệ thống siêu thị Coo-p Mart vẫn thấy xuất hiện loại xà bông này. Người mua nó là những người già, vẫn hoài cổ, thương nhớ một thương hiệu Việt từng một thời lừng lẫy.
Tỷ phú người Việt gốc Hoa Trương Văn Bền – chỉ huy trưởng kỹ nghệ đầu tiên của Việt Nam
Người Anh, Mỹ thường gọi những người đầu đàn trong kỹ nghệ là “captains of industry” (dịch nghĩa là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ”) thể hiện ý tưởng coi những người khai phá, lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh trong công nghiệp, kinh tế, tài chính, như những chỉ huy trưởng các đơn vị chủ lực trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội.
Vì thế, nếu xem xét lại toàn bộ những gì mà tỷ phú Trương Văn Bền đã từng làm cho nền kỹ nghệ Việt Nam thời trước 1975, thì có thể gọi ông Trương Văn Bền là người “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 thiết nghĩ cũng không có gì quá quắt.
Trương Văn Bền chính là ông chủ đã khai sinh ra thương hiệu xà bông “Cô Ba” – là thương hiệu đầu tiên của người Việt cạnh tranh được với các thương hiệu nước ngoài nổi tiếng. Câu chuyện về cách làm giàu và cách làm thương hiệu của Trương Văn Bền thực khiến cho đời sau phải suy ngẫm.
Những năm cuối đời, tỷ phú Sài Gòn Trương Văn Bền sống ở Pháp. Ông đã viết một cuốn hồi ký kể về con đường xây dựng thương hiệu “Cô Ba” của mình – một thương hiệu khiến cho nhiều người Âu đến Việt Nam phải nể phục.
Cuốn hồi ký đấy được hậu duệ của tỷ phú Trương Văn Bền – hiện giờ đang sinh sống ở Pháp lưu giữ. Ai có cơ hội đọc hồi ký của tỷ phú TRương Văn Bền sẽ thấy tầm trí tuệ của một người có năng khiếu thương trường thiên bẩm.
Thế nên gọi Trương Văn Bền là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chắc chắn không phải là nói quá.
Theo các tác giả, có thể bắt đầu từ Vương Hồng Sển hay Hứa Hoành, thì Trương Văn Bền là người Minh Hương gốc Triều Châu, nhưng thật ra không đúng vậy. Theo người cháu nội của ông, anh Phillipe Trương hiện nay sống ở Pháp thì gốc ông ở Phước Châu, Phúc Kiến, ngay tại Ngũ Hổ Sơn.
Tổ tiên của Trương Văn Bền là Trương Thuận Tri, một sĩ quan tùy tùng của tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch. Dương Ngạn Địch và người tướng khác nhà Minh là Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn quân gồm binh sĩ cùng gia đình của họ từ Quảng Đông lánh nạn nhà Thanh đi trên đoàn tàu đến Việt Nam vào thế kỷ 17.
Được phép của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Tân, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Dịch xuông vùng đất mới Gia Định tìm chổ trú ẩn và lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên đến Cù lao Phố (Biên Hòa) định cư trong khi Dương Ngạn Địch đến vùng nay gọi là Mỹ Tho.
Trương Thuận Chi ở Mỹ Tho một thời gian sau đó đến vùng Chợ Lớn ngày nay. Một người cháu của Trương Thuận Chi là Trương Quốc Thái (sinh vào khoảng đầu thập niên 1800) được nhà Nguyễn bổ chức Huyện Thừa ở Rạch Giá.
Sau ngày Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam, Trương Quốc Thái dời vào Huế và được vua Tự Đức phong làm chức Phủ doãn ở tỉnh Bình Thuận. Sau khi Trương Quốc Thái mất, người con của ông là Trương Quang Thanh trở về miền Nam ở tại Chợ Lớn.
Ông từ chối phục vụ trong chính quyền Pháp và trở thành một người buôn bán bình thường. Trương Quang Thanh cũng là một thi sĩ và họa sĩ. Ông mất vào năm 1905. Anh Philippe Trương hiện nay vẫn còn giữ hai bức tranh do ông vẽ và nhiều bài thơ.
Trương Quang Thanh có 8 người con trai và một gái. Người con gái là bà Trương Thị Cưởng, sau này thành hôn với ký giả Nguyễn Văn Sâm. Trương Văn Bền là một trong 8 người con trai. Ông Trương Văn Bền sanh ngày 10 tháng 10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi, (tháng 12 - 1884).
Thưở thiếu thời, như nhiều gia đình khá giả và học thức, lúc đầu Trương Văn Bền học chữ Hán. Sau đó năm 1896, ông bắt đầu giáo dục Pháp, học ở các trường Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon).
Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học). Thường xuyên được sang Pháp, lại được theo học ở những ngôi trường Pháp danh tiếng, nhưng Trương Văn Bền chưa từng có bất cứ bằng cấp nào.
Dù vậy ông vẫn được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư. Năm 1901, ông rời bỏ không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông.
Gia đình Trương Văn Bền
Từ bé, Trương Văn Bền đã quen với khung cảnh giao thương mua bán tấp nập, và máu kinh doanh cũng thấm vào người ông như lẽ tự nhiên. Năm 31 tuổi, ông lập một đồn điền cao su cỡ nhỏ ở Thủ Đức, sau đó mấy năm, ông mở rộng kinh doanh bằng cách lập công ty khai khẩn ruộng ở Đồng Tháp Mười.
Ông cũng hợp tác với Viện nghiên cứu Nông nghiệp Đông Dương trong việc chích nhựa thông và phục hồi các khu rừng quanh Đà Lạt, sản xuất mỗi năm khoảng 30 tấn dầu thông và hàng trăm tấn tùng hương.
Dù rất thành công với những lĩnh vực trên, nhưng khi nhắc đến Trương Văn Bền, người ta lại thường nhắc đến một lĩnh vực khác: kinh doanh xà bông.
Khi mới bỏ nghiệp công chức ra làm kinh doanh, lúc đầu Trương Văn Bền bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn.
Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn.
Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Từng được xang Pháp nhiều lần, Trương Văn Bền có cơ hội tiếp xúc với kỹ nghệ sản xuất xà bông của người Pháp. Khi về Việt Nam, ông thấy xà bông Việt Nam thua xa xà bông Pháp.
Thuở đó, chỉ có các lò nấu nhỏ ở Chợ Lớn sản xuất xà phòng, giá không đắt nhưng chất lượng kém. Người Sài Gòn ưa chuộng các sản phẩm nhập khẩu từ Pháp - loại sản phẩm mà họ vẫn thường gọi là xà bông Marseille.
Ở Việt Nam cũng có hai nhà máy làm xà bông của Pháp do ông Mazet và ông Boris làm chủ cũng được ưa chuộng. Tuy nhiên những hãng xà bông này giá rất mắc, chỉ giới thượng lưu mới dám dùng. Người bình dân chỉ biết đứng từ xa khao khát.
Không chạnh lòng buồn như nhiều người khi thấy dân chúng chỉ sính dùng hàng ngoại, ông Trương Văn Bền, với sự nhạy bén sẵn có của một doanh nhân, đã ngay lập tức nhận ra một cơ hội ngàn vàng. Một mặt, Trương Văn Bền lân la đến hai nhà máy này, tìm cách học bí quyết sản xuất xà bông.
Mặt khác, ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Khi kỹ sư về Việt Nam, ông bắt tay vào sản xuất mặt hàng xà bông của riêng mình, với mục tiêu hướng tới người bình dân trước tiên và sau đó là cả tầng lớp thượng lưu.
Là người nhạy cảm trong việc thương mại, nhìn xa thấy rộng, ông Bền biết rõ một tiềm năng kinh tế Việt Nam còn bị lãng quên: cây dừa. Từ năm 1918, ông đã lập xưởng ép dầu dừa. Xưởng này sản xuất đủ loại dầu từ dấu nấu ăn, dầu salat (salad oil) đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ.
Mỗi tháng sản xuất 1.500 tấn. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng.
Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập cảng từ Marseille, nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp.
Ông Trương Văn Bền sản xuất xà bông “Cô Ba” từ cây dừa Bến Tre. Theo ông Hồ Vĩnh Sang – Chủ tịch Hiệp hội Dừa Bến Tre thì dân Bến Tre đã làm dầu dừa bán cho Hoa kiều từ những năm đầu thế kỷ 20, bán cả cho ông Trương Văn Bền theo hai dạng: cơm dừa và dầu dừa thô.
Rồi chủ hãng mới chế thành dầu ăn, xà bông… Lúc đầu có xà bông đá giặt còn nghe mùi dầu dừa. Sau ra loại xà bông thơm Cô Ba thì ai cũng chịu bởi nó thơm lâu. Dân miền Nam hồi đó toàn xài xà bông Cô Ba chớ đâu có hàng ngoại nhập gì vô được.
Công thức sản xuất xà bông của ông Bền khi đó chỉ là “dầu dừa, xút kết hợp vài phụ gia khác ” với 72% dầu dừa. Tới giờ, vẫn chưa ai biết ông Bền có bí quyết nào chế ra được loại xà bông có mùi thơm vừa chân chất, gần gũi lại vừa kiêu sa, đài các mang tên “Cô Ba” ấy.
Bánh xà bông nhỏ mịn màng ấy chẳng những đánh bật được những loại xà bông ngoại lúc bấy giờ mà còn được xuất ra nước ngoài rất nhiều.
Cách làm thương hiệu “không tiền khoáng hậu” của tỷ phú Trương Văn Bền đầu thế kỷ 20
Trong ký sự “Một tháng ở Nam Kỳ” (1918), ông Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền như sau: “Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn.
Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp….”.
Những việc Trương Văn Bền làm được, là những việc nằm ngoài sức tưởng tượng của nhiều nhà tư sản Việt và cả những người Pháp ở Đông Dương. Công ty Trương Văn Bền và các con ra đời với mục tiêu chính là trở thành nhà máy nấu xà phòng lớn nhất Đông Dương.
Tận dụng nguyên liệu có sẵn, ứng dụng kỹ thuật mới, Công ty Trương Văn Bền và các con đã đưa ra những sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá cả phải chăng. Thêm vào đó, ông lại rất chú trọng đến việc quảng cáo và khuếch trương thương hiệu.
Trên hộp xà bông của hãng là hình một trong những mỹ nhân nức tiếng Sài Gòn lúc bấy giờ - cô Ba. Xà bông cô Ba xuất hiện trên khắp các báo chí với lời kêu gọi: “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam”.
Đặc biệt trong các cuộc triển lãm, gian hàng của công ty luôn tạo ấn tượng cho khách bởi mô hình cục xà bông khổng lồ và giá cả sản phẩm rẻ hơn bình thường đến 25%.
Hơn thế, ông Bền còn tìm cách đưa hình ảnh sản phẩm vào khắp các loại hình nghệ thuật được người Việt ưa thích lúc bấy giờ như ca vọng cổ, thơ lục bát…Thành công đến không ngoài dự tính.
Xà bông cô Ba đánh bại xà bông Marseille, nhanh chóng được biết tới trên toàn Đông Dương, thậm chí còn xuất sang Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo. Cái tên Xà bông cô Ba đã trở thành gắn bó với người Việt Nam vì chất lượng tốt và giá cả phải chăng.
Công ty của Trương Văn Bền và các con trở thành công ty sản xuất trong lĩnh vực dầu dừa không thể thay thể và quan trọng bậc nhất toàn cõi Đông Dương. Cho đến tận bây giờ, nhiều người Sài Gòn vẫn còn nhắc lại cái tên ấy với nỗi hoài niệm khôn nguôi về một Sài Gòn đầu thế kỷ.
Ngày nay ở Sài Gòn vẫn còn hãng xà bông Trương Văn Bền, vẫn sản xuất thương hiệu xà bông Cô Ba, coi đây như một biểu tượng của một thương hiệu Việt.
Một trong những điều làm nên thành công của thương hiệu xà bông Cô Ba chính là cái tên rất Việt Nam mà tỷ phú Trương Văn Bền đã nghĩ ra cho sản phẩm của công ty mình, cũng như biểu tượng ngườ phụ nữ Nam bộ trên bao bì.
Trong hồi ký của ông, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho Xà-bông mà chưa kiếm ra.
Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn, đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to:
“Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới.Tôi không bỏ lỡ vội chụp lấy vụ này, tôi muốn lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông do người Việt Nam sản xuất để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà bông Việt Nam là của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.
Về sự chọn lựa biểu tượng của xà bông Việt Nam, ông đã dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt nam rất đậm dân gian Nam bộ là “Cô Ba”. Không biết trong trường hợp nào ông đã dùng hình ảnh của một người phụ nữ “cô Ba” – người phụ nữ có gương mặt phúc hậu, thuần Việt, tóc búi với nét đẹp có duyên Nam bộ.
Biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ dàng nhận diện vàquen thuộc của con người trong vùng đã là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi.
Một trong những tin đồn huyền thoại dân gian kể lại thì “Cô Ba “chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhứt Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Cô Ba có thể coi là người phụ nữ Việt đầu tiên là người mẫu cho một thương hiệu hàng hóa Việt Nam.
Có nhiều giai thoại về “Cô Ba”, nhưng các giai thoại và tin đồn về “Cô Ba” có nhiều tin không đúng. Thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của ông Trương Văn Bền. Ta có thể thấy hình ảnh trên nhãn hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền trong bức ảnh chụp chung cả gia đình là một.
Vả lại, trước kia trong phòng làm việc của ông tại công ty Xà Bông Việt Nam có tượng bằng đồng đen hình vợ ông mà ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông. Rất yêu người vợ xinh đẹp này, ông Trương Văn Bền đã lấy chân dung vợ làm biểu tượng cho thương hiệu xà bông của mình, biến nó thành một thương hiệu sống cho đến tận giờ.
Thời bây giờ nhắc đến chuyện PR, làm thương hiệu, chẳng ai xa lạ. Nhưng từ thời xưa, Trương Văn Bền đã rất giỏi quảng bá thương hiệu của mình.
Trong sự tiếp thị sản phẩm trên thị trường cạnh tranh lúc đầu và sau này cho đến khi ông mất để khuếch trương thương hiệu, Trương Văn Bền đã khôn khéo sáng tạo không kém những doanh nhân nổi tiếng trên thế giới hiện nay.
Trên báo chí ở Việt Nam từ khi xà bông Việt nam được sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo thường đăng “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền, vừa quảng cáo, vừa “khích” người Việt nên dùng thương hiệu Việt, khích lệ lòng tự hào Việt.
Trong hồi ký, ông Trương Văn Bền kể: “Tôi phải làm quảng cáo dữ lắm cho thương hiệu xà bông Cô Ba. Một mặt phải kiếm thế ép mấy hàng tạp hóa mua xà-bông Việt Nam về bán, vì tiệm tạp hóa hầu hết của khách trú, chúng xấu bụng không mấy khi chịu mua đồ của người Việt Nam chế tạo về bán, chỉ trừ khi nào món đồ ấy đã được thông dụng đem cho chúng một mối lợi hàng ngày thì chúng mới chịu mua.
Tôi bèn huy độngmột tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không ? Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu:
“Sao không buôn xà bông Việt Nam về bán ? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều”. Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý lấy làm lạ, phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, cho người mua thử về bán.
Tôi còn tổ chức những tốp quảng bá thương hiệu. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của xà bông của hãng mình, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu thương hiệu xà bông của hãng. Nói tóm lại tôi không bỏ lỡ một dịp nào mà không làm quảng cáo, nên xà bông Việt Nam bán chạy lắm”.
Nhờ sức mạnh quảng cáo nên xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền bán rất chạy, tiến phát rất mau, chỗ nào cũng buôn xà bông Cô Ba, ai nấy chỉ dùng xà bông Cô Ba thôi.
Thấy mối lợi như vậy nhiều người chóa mắt cũng làm xà bông để tranh dành, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà bông “Con Cọp”, Balet ra xà bông “Nam-Kỳ” cũng có biểu tượng người đàn bà Việt Nam như xà bông Cô Ba, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông “3 sao” ở Cần Thơ...
Nhưng tranh đua không lại với xà bông Cô Ba nên đều bị thất bại, bỏ cả.
Theo Thạch Vinh
Phụ nữ Today
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét